Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh: Truyền thông Công giáo là phục vụ và liên kết

Paulus Lê Sơn (Danlambao)Sau cuộc phỏng vấn với Lm Anton Lê Ngọc Thanh về báo chí của Việt Nam trong tương lai gần. Chúng tôi tiếp tục được Linh mục chia sẻ về truyền thông Công giáo. Kính mời quí vị theo dõi cuộc phỏng vấn giữa Paulus Lê Sơn và Linh mục Ant Lê Ngọc Thanh.

Paulus Lê Sơn: Thưa cha, cha đánh giá thế nào về lực lượng truyền thông Công Giáo hiện nay?

Linh mục Ant Lê Ngọc Thanh: Hiện nay truyền thông Công giáo thì tại một số Giáo phận, dòng tu cũng có tổ chức đào tạo. Nhưng đều phải đợi chờ vào cơ chế chính sách của nhà nước. Do đó, bên Công giáo chưa có lực lượng những người làm truyền thông chuyên nghiệp.

Bởi vì, khi ra một cơ quan truyền thông mang tính báo chí thì tức khắc là bị vi phạm luật đối với nhà nước nên không phát triển được.

Thời gian vừa qua những nơi nào mà chủ động thì nơi đó làm tốt công tác huấn luyện nhân sự cho tương lai. Nơi nào không chủ động được thì cố gắng dựng lên một website để cầm chừng thông tin những hoạt động tối thiểu, chứ chưa có tính mục vụ truyền thông như Giáo hội mong muốn. 

Paulus Lê Sơn: Trước đây, DCCT có trang chuacuuthe.com và bây giờ có trang tinmungchonguoingheo.com thì được dư luận rất quan tâm. Hai trang này được khởi xướng từ cha và một số linh mục của DCCT. Vậy trong tương lai tới, cha có những dự định gì đối với truyền thông, thưa cha?

Linh mục Ant Lê Ngọc Thanh: Chúng tôi thấy có hai việc, thứ nhất là tiếp tục gia tăng việc huấn luyện để có nhiều người hơn có khả năng làm truyền thông. Thứ hai là nghiên cứu ứng dụng App, bởi vì tỉ lệ người sử dụng điện thoại di động để truy cập và đón nhận thông tin hiện nay chiếm đến gần 80 % người sử dụng internet.

Do đó, với cách truy cập hiện nay là truy cập vào website thì có hạn chế là rất lâu. Những điện thoại 3g hết tiền hay ít tiền thì truy cập lâu… Đã đến lúc chúng ta phải tạo ra những cái App đơn giản như thể chỉ chạm tay đến là cái App đó mở ra.

Hiện nay chúng tôi chưa tìm ra được ngôn ngữ nào tốt hơn ngôn ngữ nền tảng để họ viết bộ code của Facebook, nhưng tôi nghĩ trong tương lai sẽ có.

Paulus Lê Sơn: Thưa cha, về vấn đề nhân sự của truyền thông Công giáo thì cha có suy tính gì không?

Linh mục Ant Lê Ngọc Thanh: Hiện nay về phía Giáo hội chung thì cũng có nhiều người được gởi đi học truyền thông Công giáo chuyên nghiệp ở Roma, Philippine, Hoa Kỳ. Tuy nhiên những ứng dụng và thích nghi thì hiện nay bị hạn chế bởi chính sách và sự dấn thân quyết liệt cho quyền tự do báo chí của các vị ấy.

Còn mức độ thấp hơn, những người biết làm truyền thông căn bản, làm truyền thông để phục vụ công chúng thì số lượng này không có đông. Bởi vì không có cơ chế về nuôi quân, nên cũng không tạo ra được việc làm bền vững. Hầu hết đến nay đều làm việc trên tinh thần thiện nguyện.

Do đó, họ phải ưu tiên việc kiếm sống, có thời gian rảnh họ mới phục vụ được. Nên tin tức còn thưa thớt trong các hoạt động Công giáo.

Đã từng có lý tưởng là mỗi một Giáo xứ khi có sự kiện gì thì chuyển tin đi. Nhưng có hai khúc mắc, đó là họ chỉ muốn chuyển tin lên trang của họ chứ không muốn đưa lên trang công cộng để mọi người lấy, bởi vì đấy là công sức của họ, thì tin của họ chỉ quẩn quanh nơi Giáo xứ họ biết.

Cái thứ hai, họ mất công xây dựng lên trang Web rất công phu, nhưng lượng người truy cấp rất ít nên một thời gian sau họ nản, họ không đủ sức cầm cự và rồi họ bỏ cuộc.

Nên đã đến lúc phải có một số người làm chuyên nghiệp để làm như công cụ phục vụ và khuyến khích mọi người làm truyền thông tự do để tạo ra sự liên kết. Đó chính là hướng đi của truyền thông Công giáo cũng như trong xã hội vậy.

Paulus Lê Sơn: Nhắc lại vụ công an Nghệ an sách nhiễu các học viên của khóa huấn luyện truyền thông hồi tháng 11 năm 2015 do cha đặc trách. Cha nghĩ gì về vụ việc này?

Linh mục Ant Lê Ngọc Thanh: Những người tham gia khóa học đó bị sách nhiễu bởi công an thì không có gì là lạ. Chính tôi là người giảng dạy khóa đó, khi mới bước xuống máy bay thì công an đã mời tôi làm việc ngay tại sân bay Vinh, Nghệ an.

Như vậy, họ rất là căng thẳng và sợ hãi vì điều đó. Khi có nhiều người biết làm về truyền thông thì sự thật sẽ được minh bạch đồng nghĩa sự gian dối của họ không còn được che dấu. Như vậy cơ hội để lạm quyền, đàn áp bảo vệ chế độ bằng bạo lực không còn chắc chắn. 

Đó chính là lý do mà họ ngăn cản hoạt động truyền thông. Cái việc mà họ câu lưu người này, triệu tập người kia, sách nhiễu nhiễu, đe dọa gia đình, đó chính là thủ đoạn để ngăn ngừa và tiêu diệt hoạt động truyền thông.

Trong thực tế, các cách thức mà họ làm chỉ phù hợp trước năm 1995. Còn bây giờ đều bị vô hiệu hết bởi vì người dân đứng góc núi cũng làm được truyền thông mà, làm sao anh ngăn cản được. Anh có đe họ thì họ chuyển tin cho bạn họ làm thì sao mà ngăn cản được.

Một chính sách như vậy chỉ mang lại thù oán cho nhân dân chứ không giải quyết được vấn đề.

Paulus Lê Sơn: Xin chân thành cám ơn cha đã cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.


Phú Quốc Safari: Thông tin chưa chính xác hay sai sự thật?

Người Quan Sát (Danlambao) - Để trả lời báo chí về thông tin hàng ngàn con thú chết tại Vinpearl Phú Quốc Safari theo công bố trên blog của chuyên gia sở thú Peter Dickinson, phóng viên báo Công an Nhân dân cho rằng: “Thông tin hàng ngàn động vật chết hoàn toàn sai sự thật” (1)


Sự thật là gì?

Sự thật là có thú chết tại vườn thú.

Và sự thật là VinGroup chăm sóc vài nhà báo khá kỹ từ bữa ăn đến giấc ngủ và cả bao thư lót tay, để rồi kết quả của chuyến đi thực tế nghỉ dưỡng tại Vinpearl Phú Quốc Resort là những bài báo dạng “thông cáo” như trên.


Với sự chăm sóc của VinGroup, nhiều báo đã tự biến mình trở thành công cụ PR cho doanh nghiệp và bỏ rơi chức năng thông tin trung thực đến người đọc. Và VinGroup điềm nhiên tuyên bố im lặng không trả lời các câu hỏi có tính minh bạch thông tin.

Phát ngôn của đại diện các ban ngành có chức năng liên quan đến vụ thú chết tại Vinpeal Safari Phú Quốc (VSPQ) cũng trái ngược nhau. Con số động vật chết cũng không khớp nhau. 

Điểm quan trọng là thông tin đều từ VinGroup đi ra mà không có sự kiểm nghiệm độc lập.

Việc nhập thú về VSPQ đến lúc này lại là vấn đề lớn khi các cá nhân bị tố cáo có liên quan đến đường dây vận chuyển thú hoang dã Nam Phi do Quỹ cứu hộ động vật toàn cầu (IARF) lần lượt xóa ảnh và giấu hết thông tin đã công bố trước đó trên Facebook cá nhân của mình.

(Người đàn ông áo xanh trong ảnh, được cho là cha của Chu Đăng Khoa - chồng của cô Vân Anh Lê, người công bố bộ ảnh nhập khẩu động vật hoang dã Nam Phi từ sân bay về Vinpearl Phú Quốc Safari, đã khoe trên Facebook rằng: ông ta nuôi tê giác tại trang trại và cắt sừng)

Chu Đăng Khoa bị tình nghi có liên quan đến đường dây buôn bán động vật hoang dã.

Liệu Vinpearl Safari Phú Quốc hay nói rộng hơn là tập đoàn VinGroup có tiếp tay cho những hoạt động buôn bán động vật hoang dã trái phép hay không?

Câu trả lời có lẽ còn ở phía trước khá xa, khi thực tế việc thông tin thú chết ở VSPQ trở thành “chuyện nhạy cảm” và liên quan đến “an ninh chính trị”.

Xây dựng vườn thú trong rừng quốc gia có nguy cơ phá vỡ cân bằng hệ sinh thái tại khu vực đảo Ngọc Phú Quốc hay không? Với mục tiêu phát triển du lịch và bất chấp nhiều thứ để chiếm lấy đất rừng, xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp, sân golf.. đẩy người dân bản địa ra khỏi nơi sinh sống của mình, ai là người chịu trách nhiệm?

Những câu hỏi này, có lẽ mãi mãi sẽ không có lời đáp trước các tập đoàn đầy thế lực như VinGroup- một kiểu thực dân mới trỗi dậy khi có hậu thuẫn là nhà cầm quyền tại Việt Nam.



Dân oan đến thế là cùng

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) -Tại sao Dân oan đến thế là cùng! Dân nước người ta, ngay cả dân Việt Nam mình thời Thực dân Phong Kiến nói chung, thời “Mỹ Ngụy kìm kẹp cực kỳ, bóc lột hoành tráng” nói riêng, dân oan không phải là không có, nhưng còn được mở miệng kêu oan, thậm chí kêu lên tòa án, được tòa xử đúng theo luật pháp, chẳng hạn như vụ Nọc Nạn năm 1928 (1). Tức là dân oan còn có lối thoát, nếu không được giải oan, thì nỗi oan cũng ngừng lại ở mức đó. Phải đợi cho đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Việt Nam mới... oan đến thế là cùng!....


*

Nếu Đạo Phật và Đạo Chúa dạy rằng, lấy oán báo oán, oán chồng chất, thì trong “Đạo Bác” đang hành dân trong nước Việt Nam, Dân oan kêu oan, chỉ chuốc thêm oan.

Như ai cũng đã biết, “đức tính” của oán và oan: chữ chỉ khác nhau một cái dấu sắc, ý thì cùng là “của nợ” cả, song “tinh thần” mỗi thứ “của nợ” lại khác nhau xa: một bên nên quên đi, một đàng phải đòi lại.

Đã bị oán rồi, nay lại lấy oán đi báo oán, tuy có được “đã nư” chốc lát nhưng hậu quả là chuốc thêm oán vận mãi vào thân, nên người ta có thể bỏ qua việc báo oán. Trái lại, khi bị oan, mấy ai trên đời này mà chẳng kêu oan, nhất là nỗi oan mất nhà mất đất, mất tự do, mất quyền làm người, mất đủ thứ, kể cả mất mạng trong đồn Côn an.

Xưa nay, trong cõi người ta, không ai thoát được khỏi tay “Tứ trụ”: Sinh, Lão, Bịnh, Tử. Nhưng từ sau ngày Việt Nam bị “Đạo Bác” nó hành, người dân nước này bị thêm một “trụ” nữa là Oan, thành “Ngũ trụ”: Sinh, Lão, Bệnh, Tử và Oan!

Nói dân Việt Nam bị “Ngũ trụ” như trên, thế nào cũng bị Dư luận viên “bức xúc”, phản bác ngay, rằng dân oan chứ cán bộ đảng viên đâu có bị oan. Đúng là trình độ hiểu biết về lịch sử Đảng của DLV quá kém cỏi: người tuổi tác cỡ ông bà cố tổ nội ngoại của DLV mà cũng phải gọi cậu Cu Côn bằng Bác thì không oan là cái gì; chẳng những thế, chính bản thân cha già DT cũng bị oan khi bị đám nhi đồng cỡ cháu của DLV gọi phạm thượng là “Bác Hồ”, thay vì “Cụ cố ”, “Cụ tổ”, “Cụ tỷ”... Hồ.

Trở lại chủ đề “Dân Oan đến thế là cùng”. Sở dĩ tác giả có được cái tựa “nghe quen quen” như trên, cũng là vì nhập tâm lời bác Cả Lú oánh giá kết quả Đại họa Đảng thành công rực rỡ vừa rồi, là “...Dân chủ đến thế là cùng”. Xin gửi nơi đây một phát cảm ơn bác Lú gợi hứng thú... Dân Oan đến thế là cùng!

Tại sao Dân oan đến thế là cùng! Dân nước người ta, ngay cả dân Việt Nam mình thời Thực dân Phong Kiến nói chung, thời “Mỹ Ngụy kìm kẹp cực kỳ, bóc lột hoành tráng” nói riêng, dân oan không phải là không có, nhưng còn được mở miệng kêu oan, thậm chí kêu lên tòa án, được tòa xử đúng theo luật pháp, chẳng hạn như vụ Nọc Nạn năm 1928 (1). Tức là dân oan còn có lối thoát, nếu không được giải oan, thì nỗi oan cũng ngừng lại ở mức đó.

Phải đợi cho đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Việt Nam mới... oan đến thế là cùng! Vì oan mà không được mở miệng kêu oan. Nếu ai can đảm mở miệng kêu oan hoặc chống lại bọn cướp trắng ngang xương tài sản mình là bị tòa án XHCN buộc tội “chống nhân viên nhà nước thi hành công vụ”. hoặc khi bị bắt oan vào đồn Côn an, không chịu nhận tội vu oan là bị CA“cho” chết oan luôn tại chỗ, còn bị bồi thêm một lần oan nữa là chết vì tự vận hoặc đột tử do bệnh nan y.

Mà nào đâu phải dân oan chỉ lác đác đây đó dăm ba người lẻ tẻ, dân oan nổi lên đầy dẫy ba miền đất nước. Hình ảnh mới nhất là Ngày 27 Tháng 2 vừa qua, dân oan cả nước xuống đường kêu oan, nhưng họ đã bị nhà nước tự cho là "của dân do dân vì dân" CSVN đã đối xử với đồng bào mình như thế nào, báo đài đã nói viết đầy dẫy trên mạng lưới toàn cầu…xin được phép miễn kể ra đây .

Thật là không dân nào bằng dân Việt trong "Thời đại Hồ Chí Minh", Đảng quang vinh muôn năm là nhờ... Dân Oan đến thế là cùng!




Ghi chú:

Hoàng - Trường Sa về đâu?

Bảo Giang (Danlambao) - Cha ông ta ngày xưa từng dạy bảo con cháu một cách rất ôn tồn, khôn ngoan là:

“Biết thì thưa thốt,
Không biết thì dựa cột mà nghe”

Tôi cho rằng, những giáo huấn ấy, không phải chỉ có giá trị về luân lý và giáo dục một thời, nhưng là vạn đại. Trước hết, bài học này dậy ta tự trưởng thành với mình. Ta có trưởng thành thì mới khả dĩ đem điều đúng, điều thực đến cho người (mới nói). Nếu chưa thì ta phải học phải nghe, đừng bao giờ dối trá đem điều không biết ra để mà lừa người, dối mình. Bởi lẽ, khi đó ta chính là thằng hề cho đời. Theo đó, phàm là người, lại là người cắp sách đến trường thì cần phải cẩn trọng hơn trong lời nói, chưa nhắc chi đến chữ viết của họ.

Chuyện giáo khoa thư là thế, tuy nhiên, ở đời Cọp thường nhiều hơn Cáo, dối trá nhiều hơn thật. Đó là lý do làm câu chuyện càng lúc càng trở nên phức tạp hơn. Và đây là một câu chuyện điển hình. Trên diễn đàn Đàn Chim Việt, ngày 24-2- 2016, tác giả Lê diễn Đức viết: “Trung Quốc chiếm đoạt Hoàng Sa bằng vũ lực từ Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 và một phần Trường Sa từ Cộng sản Việt Nam năm 1988. Về mặt địa lý, lịch sử, hai quần đảo này thuộc vùng lãnh thổ tranh chấp chủ quyền, không những giữa Việt Nam với Trung Quốc mà còn cả với Philippines....”. “Hoàng Sa và Trường Sa sẽ mãi mãi thuộc về Trung Quốc, kể cả khi thể chế chính trị Việt Nam thay đổi….” (Luận tắt về tương lai Hoàng- Trường Sa.)

Lạ, trong phần bình luận có 9 phản hồi thì có đến 8 phản hồi không đồng ý, nếu như không muốn nói là phản bác, chê trách tác giả đã “đục nước” khi viết “hai quần đảo này thuộc vùng lãnh thổ tranh chấp chủ quyền”. Chỉ có một phản hồi duy nhất, bênh vực cho bài viết là của Lê diễn Đức! Đọc xong, tôi thấy ngao ngán. Buộc tôi phải viết bài này.

Trước hết, đoạn văn này xem ra là có nhiều ú ớ, nếu như không muốn nói là hoàn toàn thiểu năng về cơ nguyên của lịch sử. Hoặc giả, thiếu tính trung thực của người cầm bút. Bởi lẽ, ai cũng biết, hoàn toàn không có bất kỳ một tranh chấp nào về chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đệ nhị thế chiến. Hơn thế, tất cả các tài liệu đều xác quyết đó là phần đất của Việt Nam, và nằm dưới sự bảo hộ của Pháp với những văn bản rõ ràng. Đó là thực tế đã kéo dài hàng mấy trăm năm không thể chối bỏ. Cuối cùng đã được khẳng định và công khai hóa với thế giới trong hội nghị Sans Francisco 9/1951 về việc phân định ranh giới thời hậu chiến.

Một điểm nữa, vào thời gian mở Hội Nghị San Francisco (1951), tập đoàn cộng sản bắc Việt đã phải bỏ chạy ra khỏi Hà Nội, ngày trốn trong hang Pắc Bó, đêm chia nhau đi đấu tố và cướp của nhân dân để tồn tại. Vụ án bà Nguyễn thị Năm là một điển hình. Trên trường quốc tế, CSVN không đủ tư cách để có mặt trong Hội Nghị. Đó là lý do giải thích tại sao, đại diện cho nước Việt Nam là phái đoàn của Thủ tướng Trần văn Hữu. Phái đoàn này nằm chung đoàn với Pháp trong hội nghị. Chính Hội Nghị này đã chung quyết về diện địa thuộc các quốc gia vùng Nam Á và chung quyết số phận của Nhật Bản tại đây.

I. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

a. Hội Nghị Cairo 27/11/1943

Năm 1943, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc chiến tranh đã bước vào giai đoạn khốc liệt. Tuy nhiên, việc xem xét biên giới của các lãnh thổ sau chiến tranh cũng trở thành một vấn đề rất quan trọng. Lúc ấy, ba nước Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa, do Tưởng giới Thạch lãnh đạo) được coi là các cường quốc đã nhóm họp tại Cairo ngày 27/11/1943, đã đưa ra Tuyên bố chung, trong đó viết: “Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất năm 1914, và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng Hòa Trung Hoa.” Như vậy, lãnh thổ của Cộng Hòa Trung Hoa do Tưởng giới Thạch lãnh đạo, người đồng thời là đồng chủ tịch trong Hội nghị, đã được phân định rõ ràng, không hề có liên quan gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

b. Hội nghị Sans Francisco 7/9-1951

Theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao của Việt Nam đã tham dự Hội nghị này. Ngày 7-9-1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rõ: “Chúng tôi sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội Nghị chứng nhận. Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam khẳng định: “Vì nhu cầu cần phải xác minh tất cả mọi sự kiện liên hệ, ngõ hầu dập tắt những mầm mống các cuộc tranh chấp sau này. Chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Rõ ràng lời xác nhận công khai chủ quyền đó của phái đoàn Việt Nam là một thực thể giá trị. Hơn thế, lời công bố trong Hội Nghị không hề gây ra một phản ứng ngỡ ngàng, chống đối hoặc yêu sách nào của 51 quốc gia tham dự Hội Nghị, kể cả Nhật và Liên Sô. Theo đó, Lời công bố này phải được coi là một thành sự, hay là một sự kiện hiển nhiên không cần bàn luận nữa.

Đây là sự kiện đã thành sự. Trước đó, Andrei A. Gromyko, Ngoại trưởng Liên Xô đã đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng cho việc ký kết hòa ước với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Lời yêu cầu này được đáp ứng trong Hội Nghị bằng cách bỏ phiếu. Kết quả, với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ hoàn toàn yêu cầu của phái đoàn Liên Xô.

Tưởng cũng nên nhắc lại, nội dung của Hiệp ước tại San Francisco ngày 8-9-1951 đã quy định là: “Nhật Bản phải rút lui khỏi những nơi mà nước này đã dùng vũ lực để chiếm đóng trong cuộc chiến”. Riêng Điều 2 khoản (f) của Hiệp ước viết: “Nhật Bản phải từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đòi hỏi với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands)”. Điều này, một lần nữa xác định đề nghị của Nhật Bản đã nêu ra ở trên là hoàn toàn vô giá trị. Nói cách khác, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền của Trung Hoa đối với các quần đảo ngoài khơi biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.

Từ sau Hội nghị San Francisco, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do lực lượng trú phòng của Chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Đến năm 1954, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc, hai quần đảo này theo hiệp định Genève đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Câu chuyện đến đây là rõ, nếu như không muốn nói là kết thúc.

Tuy nhiên, chỉ mấy năm sau, cục diện trong vùng đổi khác, có nhiều phức tạp hơn. Trước hết, vào tháng 5-1950 Trung cộng chiếm được Hoa Lục từ tay Tưởng giới Thạch. Trước đó, vào tháng 9-1945 Việt cộng cướp chính quyền tại Hà Nội, nhưng năm sau CS phải tháo chạy khỏi thành phố. Rồi nhờ cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Hoa Lục, Việt cộng đã được hồi sinh và kéo vào Hà Nội sau chiến dịch Điện Biên (1954).

Tuy thế, việc được trở lại Hà Nội, Việt cộng đã phải trả bằng cái giá không hề nhỏ. Ngoài những nhân mạng là bản Công Hàm mà Phạm văn Đồng phải ký vào ngày 14-9-1958 về Hoàng Sa và Trường Sa. Ở đó, có một câu chuyện được mô tả bằng ngôn từ, giọng văn không mấy hoa mỹ là: Một đám ăn cướp nhỏ phải nhờ đám ăn cướp lớn chống lưng, nên đành phải hy sinh cái thứ mà mình đang muốn cướp cho băng đảng lớn hơn.

II. Kẻ bán nước là ai?

"Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi" (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập).

Một chủ tịch nước mà mở mồm ra nói loạn ngôn như thế thì còn ra thể thống gì? Hẳn nhiên, ai cũng biết là đất nước ta đã mất từ đây. Và ai là kẻ bán nước, mọi người cũng đã nhìn rõ mặt. Bởi vì, sau lời tuyên bố ấy, Trung cộng vẽ ra một Tuyên Bố, làm nền cho cái Công Hàm của Phạm văn Đồng như sau:

“Tuyên bố của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về lãnh hải, lãnh thổ vào ngày 4-9-1958.

1. Bề rộng lãnh hải của nước CHNDTQ là 12 hải lý… bao gồm phần đất TC trên đất liền và các đảo phụ cận, bao gồm quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, Quần Đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa)…

4. Điều (2), (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phục cận, quần đảo Penghu. Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa Nam Sa và các đảo khác của TQ.”

Đài Loan chẳng thèm nhắc chi đến cái thông cáo này. Nhưng CS bắc Việt, kẻ đang phải nương tựa áo cơm và sự trợ giúp của Trung cộng trong cuộc chiến, nên Phạm văn Đồng đã thay mặt nhà nước CSVN đền ơn Trung cộng bằng việc dâng chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo hiệp định Genève thì thuộc quyền quản trị của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, vì nằm ở dưới vĩ Tuyến 17, cho Trung cộng. Chính Phạm văn Đồng đã nhân danh Thủ tướng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa viết giấy bán đất nhà người cho Trung cộng với lời lẽ như sau:

“Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958,

Thủ tướng Phạm Văn Đồng.”

Ai dám bảo cái Công Hàm này có tính cách tư và không có giá trị, xin giơ tay? Trước khi ai đó giơ tay lên, tôi xin nhắc rằng, Phạm văn Đồng còn làm Thủ tướng gồm cả hai miền Bắc Nam từ 1975 cho đến năm 1985. Mãi đến 29-4-2000 Đồng mới bắt chuồn chuồn theo HCM. Tuy nhiên, trong từng đó năm từ 1974 cho đến khi Y về với giun dế, Phạm văn Đồng không một lần lên tiếng về chuyện này. Đã thế, chính Y còn đưa hai đệ tử là Đỗ Mười và Nguyễn văn Linh sang Trung cộng dự Hội nghị Thành Đô (1990) để xin cho VN được làm, một phiên trấn của Trung cộng vào năm 2020? Trong chuyến đi này, Y là cố vấn hay chính là kẻ thực hiện kế hoạch và đã lệnh cho Mười và Linh phải ký Hiệp Ước Thành Đô?

III. Những lý do để TC xua quân chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và công bố đó là phần đất của Trung cộng.

Dù trong tay đã nắm chắc cái Công Hàm do PVĐ ký, nhưng khi Mỹ còn ở trên biển đông, có cho thêm tiền TC cũng không dám đến. Trái lại, TC chỉ quyết định chiếm lấy đảo sau khi đã biết rõ, hơn thế, được chính HK xác nhận ngày sẽ bỏ đi. Nói rõ hơn, TC chỉ quyết định đánh úp Hoàng Sa sau ngày Kissinger rồi Nixon sang Trung cộng, thông báo cho TC biết việc Mỹ rút khỏi chiến trường Việt Nam và Biển Đông. Khi TC biết rõ ràng ý định của chuyến đi ấy là cuộc tháo chạy khỏi VN, nên đã nhân cơ hội chiếm lấy cái đảo mà PVĐ đã “đánh tiếng” trong công hàm 1958. Vào lúc ấy, Việt cộng đã không một lời xác nhận TS, HS là của Việt Nam. Trái lại, còn hồ hởi mở rượu chúc mừng chiến thắng ké, vì biết Biển Đông đã thuộc về “phe ta” rồi!

Sự việc diễn tiến như thế. Tuy nhiên, nếu mở lại hồ sơ, không phải chỉ có một công hàm của PVD xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của TC. Nhưng trước đó đã có ít nhất hai lần VC xác định điều này:

Lần thứ 1. Báo Far Eastern Economic Review ngày 2/10/1979, dưới tiêu đề Paracels Islands Dispute, tác giả Frank Ching cho biết tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (tức Bắc Việt) Ung Văn Khiêm đến gặp ông Li Zhimin, đặc sứ của Trung Quốc tại Hà Nội, xin Trung Quốc ủng hộ vũ khí và nhân sự để Việt cộng mở chiến tranh với Nam Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ này, Ung Văn Khiêm đã nói: “Theo các dữ kiện lịch sử Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc”.

Lần thứ 2. Dường như TC không dễ gì tin lời sảo trá này của Ung văn Khiêm. Theo đó mấy ngày sau, Phạm Văn Đồng, với tư cách là Thủ tướng, xác nhận những lời của Ung Văn Khiêm: “Căn cứ trên sử quan, những hòn đảo này nằm trong lãnh thổ của Trung Cộng.” (Bejing Review, March 30, 1979 trang 20). Từ đó câu chuyện đổi khác.

Điều đó cho thấy, TC và Việt cộng đã có những cuộc thảo luận ở giới chức cao cấp, và sau khi hai bên đã thỏa thuận xong, ngày 4-9-1958, Chu Ân Lai mới công bố lãnh thổ Trung Quốc nới rộng thêm 12 hải lý gồm có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đáp trả, ngày 14-9-1958, Bộ Chính Trị ĐCSVN quyết định cử Phạm Văn Đồng gởi điện quốc thư cho Chu Ân Lai vừa chúc mừng, vừa tán đồng quyết định chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cũng cần phải nói thêm là vào thời điểm 1958, có lẽ tập đoàn CS cũng chỉ nghĩ rằng viết để mà viết, mà lừa nhau vậy thôi, không ai có khả năng nhìn ra cái họa về lâu về dài. Lý do, TC không bao giờ dám đánh chiếm lấy Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trước mũi “thằng” Mỹ. Kế đến, cả hai đều biết, tại hội nghị San Francisco, Thủ tướng của Việt Nam lúc bấy giờ là Nguyễn văn Hữu đã công khai xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Cũng từ Hội Nghị này đã quyết định bác yêu cầu của ngoại trưởng Liên Sô là Gromico, và của Nhật muốn bảo quản phần đất này là của Trung Hoa quốc gia (khi đó Trung Hoa chưa rơi vào tay cộng sản). Kế đến, theo hiệp định Geneve 1954, hai quần đảo này thuộc về VNCH. Nay VNCH được Hoa Kỳ và đồng minh bảo trợ, Trung quốc khả năng đâu ra đó mà tranh chiến? Tóm lại, Minh, Đồng và tập thể BCT/ CS bắc Việt khi ấy chỉ muốn dùng kế Bán Đất Nhà Người lừa TC để nhận viện trợ mà thôi. 

IV. Tại Sao TC không đánh Hoàng Sa sớm hơn?

Có hai lý do:

1. TC không dám mở cuộc chiến từ đầu để chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa là vì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại đây. Họ không muốn cùng xa lầy hay trực diện với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. Nay tình hình chiến sự làm Mỹ xa lầy, Nixon muốn thắng cử, họ buộc phải rút chân ra. Ấy là thời cơ thuận lợi cho họ ra tay.

2. Kế đến, đầu thập niên 1970, dầu hỏa được khám phá ở Biển Động. Công ty khai thác dầu hỏa Mobil cho biết là Bạch Hổ có một lượng dữ trữ dầu hỏa rất lớn. Đã thế, họ còn phỏng đoán trữ lượng dầu hỏa có thể có ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là rất lớn. Bản tin này và cái bản Công Hàm của PVD trở thành lý do thúc Trung Cộng đưa Hải Quân xuống phương nam, mở cuộc chiến và chiếm đóng Hoàng Sa rồi Trường Sa để chiếm tiên cơ. Mọi thủ tục tính sau.

Chuyện Trường Sa, Hoàng Sa rõ ràng giữa ban ngày như thế, ai dám bảo là vùng đất đang tranh chấp đây? 

Để kết. Thực ra tôi không muốn viết, đặt vấn đề với những người cùng cầm bút. Tuy nhiên, vì Dân Tộc vì bản Dư Đồ của Tổ Quốc, dù còn hay mất (trong tương lai), tôi không thể im tiếng trước những điều mà người ta tự đặt ra, xé toạc quê hương tôi ra và bảo đó là của người khác. Hoặc giả, bảo là chiếm từ tay người khác (MN) để chạy tội bán nước cho tập đoàn cộng sản. Nghĩa là, gì thì gì, tất cả đúng hay sai phải cho công minh, chính trực, cho mình cũng như cho người.

Ở đây, chuyện Hoàng Sa và Trường Sa là chuyện giữa ban ngày, mọi người đều thấy rõ, không ai có thể lừa được ai.

Thứ nhất, Hoàng Sa, Trường Sa bị mất vào tay Trung cộng là do chính Cộng sản bắc Việt dưới sự lãnh đạo của Hồ Quang (Hồ chí Minh) dâng hiến cho kẻ thù truyền đời của Dân Tộc từ 1958. Đây là một trọng tội phản quốc và bán nước. Một tội ác mà từ xưa Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc… muốn thực hiện để cầu danh, cầu lợi, nhưng bất thành. Nay Hồ chí Minh và tập đoàn CSBV đã toại nguyện.

Thứ hai, sự hy sinh của Thiếu Tá Ngụy văn Thà và các chiến sỹ bảo vệ quê hương sẽ lưu danh vạn đời trong lịch sử Việt với Hoàng Sa, Trường Sa.

Như thế việc còn lại hôm nay là gì? Liệu con cháu của những Trưng, Triệu, của những Ngô Quyền, Quang Trung, Hưng Đạo, Lê Lợi… có cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa, khôi phục lại cơ nghiệp của tiền nhân hay không?

Tôi cho rằng, câu chuyện của Việt Nam Tự Do, của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ tùy thuộc vào hai trường hợp sau:

1. Nếu còn Cộng sản, cả Trung cộng và Việt cộng, chúng ta không có một phương cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi lẽ, tấm giấy xác nhận giao đất của chế độ CS cho Trung cộng vẫn còn đó. Nó là bức mành bất khả phá. Như thế, kèn loa của Hoa Kỳ chỉ có cơ may giúp Hoa Kỳ hưởng ké những lợi nhuận trên trường kinh tế cho riêng họ.

2. Đối diện với thế đứng trên. Người dân Việt phải quật cường hơn, theo gương của Đức Quang Trung, tạo nên một chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa để giải phóng đất nước. Khi ấy, tờ giấy bán nước ô nhục của Phạm văn Đồng đã bị xé bỏ, Trường Sa, Hoàng Sa có cơ khăn áo trở về với quê mẹ. Và cái thế đồng minh với Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta giữ yên bờ cõi, dù Trung cộng còn hay mất.


Mẫu số chung của nước Mỹ và hiệp hội các nước Đông Nam Á

Nguyễn Thành Trí (Danlambao) - Các nước Đông Nam Á và nước Mỹ có một Mẫu Số Chung là Tự Do. Lịch sử chiến đấu vì tự do ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á đã chứng minh được rõ ràng là nước Mỹ luôn bảo vệ Mẫu Số Chung Tự Do, và đã cùng góp sức với các nước đồng minh chống lại các chế độ muốn phá hoại cái mẫu số chung này. Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh các nước Đông Nam Á là các nước tự do, và vài nước trong số họ đã phải trực tiếp chiến đấu chống bọn cuồng tín cộng sản độc tài để bảo vệ cho tự do của họ. Cụ thể như là Mỹ đã cùng với Nam Hàn chiến đấu chống lại Bắc Hàn và Tàu Cộng để bảo vệ cho người dân Nam Hàn được tự do cho tới nay.

Nước Mỹ cũng đã cùng với miền nam VNCH chiến đấu chống lại CS Bắc Việt và cả khối CS Quốc Tế để giữ cho cả khu vực các nước Đông Nam Á không bị nhuộm đỏ. Trong một thời gian rất dài, trước và sau Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, một trong những đặc điểm của Mẫu Số Chung Tự Do là quyền tự do lưu thông hàng không và hàng hải ở những vùng trời và vùng biển có luật pháp quốc tế cho phép. Nước Mỹ và các nước đồng minh cũng như hầu hết các nước có đủ khả năng hàng không và đủ khả năng hàng hải đều thực hiện quyền tự do lưu thông như vậy. Một quyền tự do đi lại trong số nhiều quyền tự do căn bản đã được luật pháp quốc tế công nhận từ rất nhiều năm qua.

Vào ngày 25/10/2015 chiếc khu trục hạm USS Lassen của Hải Quân Mỹ đã thi hành chiến dịch Tự Do Lưu Thông trong phạm vi 12 hải lý của bãi đá ngầm Subi Reef/Đá Vành Khăn một trong số bảy hòn đảo nhân tạo của Tàu Cộng đã đang xây dựng ở quần đảo Trường Sa. Một lần nữa vào ngày 30/1/2016 chiếc khu trục hạm USS Curtis Wilbur của Hải Quân Mỹ đã tiếp tục thi hành chiến dịch Tự Do Lưu Thông trong phạm vi 12 hải lý của đảo Triton/Tri Tôn trong quần đảo Hoàng Sa, một vùng biển đảo đã đang bị Tàu Cộng kiểm soát và đang tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.

Để thực hiện quyền tự do lưu thông, một thứ quyền tự do căn bản, cho nên trong những tháng 11/2013 và tháng 12/2015 Không Quân Mỹ cũng đã cho những chiếc pháo đài bay B52 thi hành chiến dịch Tự Do Lưu Thông bay trên vùng trời của vùng ADIZ Tàu Cộng ở Biển Hoa Đông, và trên vùng trời của các đảo nhân tạo của Tàu Cộng ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Biển Đông Nam Á. Như vậy, Không Quân Mỹ và Hải Quân Mỹ đã đang thi hành chiến dịch Tự Do Lưu Thông trên những vùng trời và vùng biển ở Đông Á cũng như ở Đông Nam Á để tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nước cùng làm theo chiến dịch Tự Do Lưu Thông do nước Mỹ chủ động khởi xướng. Đối với các sự kiện hải hành của hai chiếc khu trục hạm USS Lassen và USS Curtis Wilbur, và các sự kiện phi hành của những chiếc pháo đài bay B52 vừa kể trên thì phản ứng giận dữ của Tàu Cộng là dễ đoán trước, nhưng lần này mới đây ở quần đảo Hoàng Sa thì phản ứng của Việt Nam lại có vẻ ôn hòa hơn khi tuyên bố Việt Nam ủng hộ “quyền quá cảnh đi qua vô hại/the right of innocent passage” của các chiến hạm Hải Quân Mỹ trong lãnh hải của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.

Ở nước Mỹ vào hai ngày 15, 16/2/2016 có một cuộc hội nghị thượng đỉnh quan trọng bất thường, bên ngoài khung tổ chức của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á/ASEAN và là lần thứ nhất của một tổng thống Mỹ chủ động mời đủ mười người lãnh đạo chính phủ của mười nước thành viên ASEAN tới tham dự hội nghị diễn ra tại Sunnylands, nam California. Cuộc hội nghị thượng đỉnh này có một tín hiệu mạnh mẽ là nước Mỹ đã đang và sẽ kiên quyết trước sau như một thực hiện chính sách Xác Lập Cân Bằng Xoay Trục Á Châu. Địa điểm Sunnylands cũng là nơi vào năm 2013 trước đây TT Obama đã mời Chủ Tịch Tàu Cộng Xi tới để cùng “hàn huyên tâm sự, bày tỏ thiệt hơn” giữa hai nước Hoa Kỳ và Hoa Lục. 

Năm 2016 này nước Mỹ muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của các nước ASEAN đã từng và hiện đang có cái Mẫu Số Chung Tự Do với nước Mỹ, mặc dù ASEAN đang có thêm các nước thành viên mới trong thời gian những năm gần đây và sau Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt. Đó là những nước Việt Nam, Cao Miên, Lào, và Miến Điện. Họ là những nước đã từng chịu ảnh hưởng nặng nề của Hoa Lục Tàu Cộng, một nước láng giềng đại lục rộng lớn, mạnh mẽ, và hung hăng. Một cách khách quan người ta đã có những nhận định chính trị về cái ý thức hệ cộng sản Mao-ít trong khu vực Đông Nam Á, nó có thể vẫn còn ít nhiều tác động ám ảnh não trạng của những người cầm quyền hiện nay ở Hoa Lục, Việt Nam, Cao Miên, và Lào, và đây đúng là một vấn đề vẫn còn cần nhiều quan tâm. 

Chính vì những lý lẽ vừa nêu trên, trong tuần lễ trước cuộc hội nghị thượng đỉnh Sunnylands 2016, ông Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry đã tới thăm viếng hai nước Lào và Cao Miên. Ông ngoại trưởng Kerry đã xếp đặt những điều cơ bản quan trọng cho cuộc hội nghị thượng đỉnh Sunnylands 2016 này, vì năm nay 2016 nước Lào được giữ chức vụ chủ tịch ASEAN. Có một chuyện cần phải lưu ý, quan tâm là Hoa Lục Tàu Cộng có thể gây áp lực với nước Lào để lặp lại sự thất bại của ASEAN năm 2012 khi nước Cao Miên làm chủ tịch. Thông cáo chung của hội nghị ASEAN năm 2012 nước Cao Miên đã bị áp lực của Tàu Cộng nên tránh không đề cập gì tới vấn đề Biển Đông Nam Á (South China Sea). 

Những nỗ lực ngoại giao của ông ngoại trưởng Kerry ở hai nước Lào và Cao Miên là để tạo ra kết quả một bản thông cáo chung của hội nghị ASEAN và nước Mỹ có đề cập tới những tranh chấp trong vùng Biển Đông Nam Á như là một vấn đề quốc tế hiện tại rất quan trọng có liên quan tới rất nhiều nước không chỉ là một vấn đề song phương giữa Hoa Lục Tàu Cộng với từng nước một trong khu vực mà Tàu Cộng muốn dùng áp lực để giải quyết riêng lẻ. Nhất là nước Mỹ luôn luôn khuyến khích, ủng hộ sự đoàn kết của hai nước đã đang là cộng sản Lào và Cao Miên đã phải chịu đựng ảnh hưởng sâu rộng, nặng nề của ý thức hệ Mao Cộng trong việc đối phó với sức mạnh bành trướng, đồng hóa, rồi sáp nhập vào Hoa Lục của Tàu Cộng trong khu vực Đông Nam Á. 

Cho dù cuộc hội nghị thượng đỉnh của nước Mỹ và ASEAN không làm cho Tàu Cộng lo sợ, nhưng trên thực tế cho thấy rõ ràng nước Mỹ và các nước Đông Nam Á có một Mẫu Số Chung Tự Do nên càng ngày càng có thêm nhiều hậu thuẫn từ các nước Ấn Độ, Nhật, Úc; ngược lại, Hoa Lục Tàu Cộng không có chung với ai một thứ gì nên càng lúc càng bị cô lập. Cuộc hội nghị thượng đỉnh Sunnylands 2016 đối với nước Mỹ quan trọng, bởi vì nó là một cuộc hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của nước Mỹ và các nước ASEAN diễn ra trên nước Mỹ, và nó cũng phản ảnh một niềm tin cá nhân mãnh liệt của TT. Obama về tính cách rất quan trọng và thiết yếu của việc liên hệ, kết hợp với các nước Đông Nam Á xuyên qua những tổ chức khu vực có cơ chế liên hiệp đa phương nhiều nước để xác lập cân bằng những liên kết song phương đã đang có giữa nước Mỹ với các nước đồng minh nhiều năm trong khu vực. 

Nói cụ thể dễ hiểu hơn là nước Mỹ mong muốn các nước Đông Nam Á và các nước lớn có liên quan đều đảm nhận trách nhiệm có chia sẻ quyền lực và lợi ích được đặt nền tảng trên Mẫu Số Chung Tự Do. Hơn nữa, cuộc hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở Sunnylands 2016 là một dịp tốt để TT.Obama nhắc cho Nhân Dân Mỹ và vị Tổng Thống Mỹ kế tiếp nhiệm kỳ 2017-2021 một nhận định rõ ràng sự quan trọng thích đáng của các nước trong khu vực Biển Đông Nam Á. Một khu vực biển đã đang và sẽ vẫn còn những hải lộ rất quan trọng cho giao thương mậu dịch quốc tế và có trị giá rất nhiều ngàn tỉ đôla Mỹ; còn hơn thế nữa là ở dưới đáy biển trong khu vực này hiện đang có quá nhiều đường dây cáp quang điện toán liên mạng có thực chất vô giá không thể tính bằng tiền. Quả thật một khu vực Biển Đông Nam Á rất cần mọi nước có liên quan phải bảo vệ cho nó không bị bất cứ một quốc gia nào cưỡng chiếm, độc quyền cai quản, và rồi làm thiệt hại tới những lợi ích chung.

Cũng có một chi tiết cần nên nhắc lại là không phải vì sự kiện TT.Obama đã được sinh ra ở tiểu bang Hawaii giữa Thái Bình Dương, và có vài năm thơ ấu đã từng sống ở nước Nam Dương, nên TT. Obama đã chủ trương thực hiện triệt để chính sách Xác Lập Cân Bằng Xoay Trục Á Châu, và Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương/TPP; nước Mỹ cũng còn là một nước Á Châu vì có một bờ biển phía tây rất dài ở trên Vành Đai Thái Bình Dương. Những người cầm quyền Hoa Lục Tàu Cộng không thể nói rằng nước Mỹ là một nước bên ngoài Á Châu không có liên can gì tới vấn đề Biển Đông Nam Á (South China Sea) ở phía Tây Thái Bình Dương. Trong những ngày gần đây Tàu Cộng đã lên tiếng gian xảo, ngụy biện cho việc quân sự hóa các đảo nhân tạo ở vùng Biển Đông Nam Á bằng cách so sánh các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã đang bị Tàu Cộng chiếm đóng là việc làm cần thiết cho quốc phòng của Hoa Lục Tàu Cộng; nó cũng giống như quần đảo Hawaii cần thiết cho quốc phòng của nước Mỹ, hay lục địa Bắc Mỹ. 

Thật đúng là một luận điệu gian xảo, ngụy biện so sánh ngu xuẩn có một không hai, không ai xuẩn động sánh bằng Tàu Cộng; bởi vì ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì Tàu Cộng chỉ sở hữu những đảo nhân tạo hoặc những đảo bị cưỡng chiếm của nước khác và còn đang tranh chấp chủ quyền, trong khi quần đảo Hawaii đích thực là một tiểu bang, một nước nhỏ có một nền kinh tế, văn hóa, giáo dục, và một hệ thống tư pháp, hành pháp, lập pháp riêng của tiểu bang Hawaii hoạt động hài hòa trong một Liên Bang Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, gọi tắt là nước Mỹ. Như vậy, không có ai quá ngu xuẩn để so sánh những đảo nhân tạo hoặc những đảo cưỡng đoạt của nước khác với tiểu bang Hawaii của nước Mỹ!

Hơn nữa, trong chiến lược toàn cầu của Mỹ cũng vì khu vực Đông Nam Á mà lính Mỹ đã trực tiếp tham chiến trợ giúp nước VNCH ngăn chặn làn sóng cộng sản lan tràn trong khu vực. Người ta đã nhận định một cách khách quan trên phương diện quân sự, sau trận Ném Bom Giáng Sinh 1972 những người cầm quyền CS Bắc Việt đã thua TT. Nixon khi họ phải nhanh chân trở lại Paris để ký kết HĐHB Paris/Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, bởi vì họ đã đồng ý chấm dứt gây chiến tranh để xác lập hòa bình, và giải quyết tranh chấp quyền lãnh đạo xã hội, thống nhất nước Việt Nam bằng việc thực hiện quyền Dân Tộc Tự Quyết trong cuộc tổng tuyển cử tự do toàn quốc có sự giám sát của quốc tế. Rất rõ ràng cái HĐHB Paris 1973 là một thành công quân sự của nước Mỹ đã chặn đứng mũi tấn công bằng phương tiện quân sự của cộng sản quốc tế vì các nước Đông Nam Á vẫn đứng vững trong thời gian tiếp theo đó.

Trên thực tế nước VNCH đã bị cưỡng chiếm là một bài học ngoại giao đắt giá cho nước Mỹ, và nhất là một bài học luôn phải ghi nhớ rằng một hiệp định hoà bình hay bất cứ một hiệp định loại nào cũng cần phải có một “lực lượng chấp pháp nghiêm chỉnh” để ngăn chặn, trừng phạt các loại vi phạm của đối phương. Quả thật HĐHB Paris 1973 đã thiếu sót một thứ “lực lượng chấp pháp nghiêm chỉnh” phù hợp với luật pháp Mỹ và thích hợp với luật pháp quốc tế vào thời điểm HĐHB Paris 1973 có hiệu lực để giúp cho nước Mỹ đã không phải chịu nhục vội vàng ra đi trong thời hạn 24 giờ đồng hồ trong ngày 29/4/1975, và tiếp theo đó lại phải rất đau lòng nhìn thấy nước VNCH bị ép buộc đầu hàng cộng sản vào ngày 30/4/1975. Người ta cũng nhận thấy rằng nước Mỹ và người Mỹ một cách cay đắng biết học từ những lỗi lầm của họ để họ có thể tiếp tục làm đúng hơn và làm tốt hơn những việc khác.

Trở lại cuộc hội nghị thượng đỉnh Sunnylands 2016 đã thảo luận chung về những vấn đề rộng lớn như hợp tác chống khủng bố, hợp tác giữ gìn an ninh hàng hải và an ninh hàng không, cũng như hợp tác khai thác các ngành kỹ thuật và đầu tư nguồn vốn thương mại. Tuy nhiên ngay trong lúc này thì hầu hết mọi người đều tập trung sự chú ý vào cái quyết định của Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển/ITLOS. Cái quyết định này dự trù sẽ được phổ biến trong tháng 3/2016 sắp tới để thông cáo cho mọi người và các bên có liên quan biết tình trạng pháp lý của các thực thể đảo nhân tạo trong sự tranh chấp chủ quyền ở các vùng Biển Đông Nam Á (South China Sea). Cho dù Hoa Lục Tàu Cộng vẫn cứ ngoan cố không chấp nhận phán quyết của tòa án ITLOS, nhưng đây chính là những khởi điểm xung đột giữa Hoa Lục Tàu Cộng với năm nước Phi, Việt, Đài Loan, Brunei, Mã Lai là thành viên của ASEAN. Những khởi điểm xung đột này với mức độ nguy cơ rất cao gây ra khủng hoảng nghiêm trọng trong khu vực Biển Đông Nam Á có một nửa lưu lượng giao thương mậu dịch quốc tế đi qua đi lại mỗi năm. Lẽ tất nhiên là các nước nhỏ không có khả năng quân sự mạnh, không thể một mình trực tiếp đối đầu với Hoa Lục Tàu Cộng, nên họ phải liên kết với nhau và yêu cầu công lý của luật pháp quốc tế ITLOS. Vì vậy trong cuộc hội nghị thượng đỉnh Sunnylands 2016 giữa nước Mỹ và ASEAN đã thảo luận những phương cách nào để đối phó lại sự gia tăng căng thẳng đối nghịch trong khu vực Biển Đông Nam Á.

Một cách tế nhị Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển/ITLOS không có ý định giải quyết toàn bộ những tranh chấp chủ quyền lãnh hải có ranh giới chồng chéo lên nhau, nhưng tòa án sẽ có quyết định về các vấn đề chính là cái tính chất hợp lệ, cái giá trị pháp lý của sự yêu cầu đường-ranh-giới-chín-đoạn của Hoa Lục Tàu Cộng và tình trạng lãnh hải hợp pháp của các vùng biển đảo dựa theo yêu cầu đường ranh giới; một cách cụ thể phải khẳng định là các bãi đá ngầm đã được cải tạo, xây dựng thành đảo, như vậy là đảo nhân tạo hay là đảo thiên nhiên, để căn cứ theo đó xác định nó có giá trị pháp lý của Vùng Đặc Quyền Kinh Tế/EEZ, một hiện trạng Thềm Lục Địa/Continental Shelf hợp lệ.

Ở vào thời điểm này của Hoa Lục Tàu Cộng là đang ve vãn, quyến rũ các nước Đông Nam Á đi vào Con Đường Tơ Lụa trên mặt biển ngàn trùng sóng gió, nhưng Tàu Cộng vẫn giữ cái lập trường và thái độ hung hăng cướp biển của Tàu Cộng trong các vấn đề tranh chấp Biển Đông Nam Á thì có nước nào dám can đảm đi theo. Một cách trực tiếp cái phán quyết của ITLOS có sức thúc đẩy mạnh để tạo ra một Bộ Qui Tắc Ứng Xử Trên Biển Đông/Code of Conduct/COC Ở Biển Đông Nam Á có đầy đủ ý nghĩa, và cũng có thể tạo một cơ hội cho các nước ASEAN đoàn kết hơn để thống nhất ý chí trong những nghị quyết của ASEAN. Đây cũng là một tình thế rất tế nhị của các nước ASEAN phải đối xử cùng lúc muốn có tối đa giao thương mậu dịch với Hoa Lục và cũng muốn có quan hệ bảo vệ an ninh gần hơn với Hoa Kỳ trên căn bản Mẫu Số Chung Tự Do./.



Sài Gòn, Chủ Nhật 28/2/2016 

Kế hoạch dự bị của Hoa Kỳ trong trường hợp chiến tranh với TC

Robert Beckhusen * Phạm Ðức Duy (Danlambao) dịch - Hoa Kỳ không còn có thể dựa vào các căn cứ không quân của mình tại Thái Bình Dương để tránh khỏi các cuộc tấn công tên lửa trong một cuộc chiến tranh với TC. Trái lại, một bài báo đăng vào năm ngoái 2015 của cơ quan RAND đã lưu ý rằng trong trường hợp xấu nhất, “nếu phòng thủ thiếu kín đáo, các cuộc tấn công lớn hơn, chính xác và kéo dài có thể sẽ đưa đến những tàn phá, thiệt hại lớn về máy bay và đóng cửa các phi trường trong một thời gian dài”.

Căn cứ không quân Hoa Kỳ Kadena ở Okinawa tại Nhật, tương đối gần đại lục, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Vào tháng 9 năm 2015, TC cũng đã công khai tiết lộ loại tên lửa đạn đạo mới DF-26, từ đại lục có thể tấn công căn cứ không quân Hoa Kỳ Andersen ở Guam, cách xa 3.000 dặm. Andersen và Kadena là hai căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất của quân đội Hoa Kỳ ở nước ngoài.

Tinian, hòn đảo nhỏ gần đảo Guam đang từ từ trở thành một trong những căn cứ dự bị của Không quân Mỹ. Ngày 10 tháng 2 vừa qua, Tinian đã được chọn như một sân bay chuyển hướng “trong trường hợp căn cứ không quân Andersen ở Guam, hoặc các căn cứ khác ở vùng tây Thái Bình Dương bị hạn chế hoặc phong tỏa.”

Trong ngân sách dành cho năm 2017, Ngũ Giác Ðài đã yêu cầu 9 triệu đô la để mua 17,5 mẫu đất “trong việc hỗ trợ các hoạt động chuyển hướng và các đề nghị ​​tập luyện quân sự”, báo Saipan Tribune đưa tin. Trong thời bình, Không quân Mỹ ước lượng sân bay Tinian sau khi được mở rộng sẽ chứa “lên đến 12 máy bay tiếp nhiên liệu và một đội ngũ nhân viên hỗ trợ cho các hoạt động chuyển hướng”.

Tinian hiện giờ là một nơi buồn tẻ.

Trong Thế chiến II, Sư đoàn 2 và 4 Marine của Mỹ đã chiếm hòn đảo, và sau này các phi cơ B-29 Superfortress Enola Gay và Bockscar đã cất cánh từ sân bay North Field tại Tinian và thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasakị Từng là một kho vũ khí trong thời chiến, hiện nay hầu hết các đường băng tại North Field bị bỏ hoang, không được sử dụng. West Field, một căn cứ không quân khác trên đảo lúc trước, hiện chỉ là một sân bay quốc tế nhỏ, ít được biết đến.

Lúc đầu Hoa Kỳ muốn dùng Saipan làm phi trường quân đội. Cách Tinian không xa, Saipan có dân số 15 lần hơn Tinian, một phi trường lớn hơn và một bến cảng. Nhưng đề xuất này đã gặp phải sự phản đối của các nhà hoạt động địa phương do các hiệu ứng về “san hô, nước sạch, giao thông vận tải địa phương và các yếu tố kinh tế xã hội đối với cộng đồng xung quanh,” báo Stars and Stripes đã đề cập.

Phe chống đối lập thậm chí bao gồm cả giới ủng hộ việc kinh doanh trong đó có cả Phòng Thương mại của Saipan. Họ lo ngại rằng phi trường rỉ sét Tinian sẽ bị bỏ rơi trong lần chi tiêu lớn của Ngũ Gia’c Ðài kỳ này. Phi trường Saipan hiện cũng đang quá tải, và dân địa phương không hài lòng về triển vọng của hàng trăm phi công bay đến cho các khóa diễn tập quân sự kéo dài tới tám tuần mỗi năm.

Có thể nói đây là một sự lập lại quá khứ. Lúc trước Hoa Kỳ đã phân tán các căn cứ không quân ở những mức độ khác nhau và ở nhiều nơi trên thế giới trong thời chiến tranh lạnh. Nhưng từ khi mối đe dọa của một cuộc tấn công tên lửa từ phía Liên Xô không còn nữa và lúc ngân sách quốc phòng sau Persian Gulf War bị cắt giảm nhiều trong thập niên ‘90, Hoa Kỳ đã chuyển sang xu hướng dùng những căn cứ rất lớn (mega-base) hoạt động theo quy mô kinh tế.

Tuy nhiên trong thời chiến mô thức phân tán các căn cứ quân sự có xác suất tồn tại nhiều hơn, Alan Vick của RAND đã nghiên cứu và kết luận trong năm 2015:

“Phân chia những phi cơ trên nhiều căn cứ khác nhau tạo ra khả năng phòng hờ, dư bị trong lãnh vực điều hành trên mặt đất và các cơ sở. Điều này giúp tăng cường sự an toàn cơ bản của các chuyến bay bằng cách cung cấp nhiều chỗ đáp hơn cho những trường hợp cần chuyển hướng khẩn cấp hoặc lúc thời tiết xấu. Nó còn làm tăng số lượng các sân bay mà địch phải theo dõi và có thể gây khó khăn hơn cho kẻ thù lúc nhắm mục tiêu (một phần vì số lượng di chuyển giữa các căn cứ của các lực lượng bạn gia tăng).”

“Ít nhất, so với mô thức tập trung, phân tán (vì làm tăng tỷ lệ đường băng và máy bay) buộc phía địch phải sử dụng nhiều năng lực đáng kể hơn để tấn công những đường băng. Mô thức phân tán cũng làm tăng chi phí xây dựng và điều hành các phi cơ trên nhiều căn cứ chính. Để giảm thiểu những chi phí này, mô thức phân tán có xu hướng dùng những căn cứ nhỏ, khiêm tốn hơn, đôi khi, có thể chỉ là những đường băng.”

27/2/2016

Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại

Marta Wajer * Nguyễn Quang (DĐVN21) - LGT: Lần đầu tiên, tổ chức nhân quyền Phóng viên Không Biên giới và tổ chức Thiên chúa giáo misso đã làm việc chung với nhau và đưa rachiến dịch Thỉnh nguyện thư #freeLy yêu cầu trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị quản thúc Nguyễn Văn Lý. Hai tổ chức này muốn nhấn mạnh rằng quyền tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời nhau. Mở đầu chiến dịch này là buổi Thảo luận bàn tròn ngày 26 tháng 1 vừa qua tại Berlin (DĐVN21 đã đưa tin).

Xin ký tên ủng hộ thỉnh nguyện thư (song ngữ Đức và Anh) của missio và Phóng viên Không biên giới, ký tên tại đây: 
https://www.openpetition.de/petition/online/freiheit-fuer-nguyen-van-ly-freely.

Tổ chức missio đã phỏng vấn TS Dương Hồng Ân, điều hợp viên của Diễn Đàn Việt Nam 21 và đăng trên trang mạng missio. Sau đây là bản dịch của Nguyễn Quang.


Tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời. Chính vì vậy tổ chức misso và tổ chức Phóng viên Không Biên giới đang cùng kêu gọi trả tự do cho blogger, nhà báo công dân và linh mục đang bị giam giữ Nguyễn Văn Lý. Đó là lý do tại sao họ đã khởi xướng một bản kiến nghị Petition vào ngày 26 tháng Giêng. Trong loạt bài của missio "Tiếng nói của chúng tôi cho các blogger bị bách hại" các blogger khác diễn tả tại sao họ hỗ trợ chương trình hành động này. Hôm nay tiến sĩ Dương Hồng-Ân, điều hợp viên của blog "Diễn Đàn Việt Nam 21", lên tiếng.

Ông cảm nhận gì khi nghe tin về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam?

Đầu tiên tôi nghĩ ngay đến nhiều người can đảm ở Việt Nam dù ở hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm cho chính bản thân mà vẫn tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền. Tôi xin tỏ lòng kính trọng và chân thành biết ơn những mẫu người cương trực này.

Ai cũng rõ, các chế độ độc đoán thường không tuân thủ những thỏa ước và nghĩa vụ quốc tế mà họ đã ký kết. Ngay chính quyền Việt Nam mặc dù là thành viên trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cũng công khai xem thường các quyền tự do báo chí, tư tưởng và tôn giáo ngay tại đất nước mình. Các nhà hoạt động nhân quyền và các nhà báo Blogger phê bình nhà nước bị đối xử ngược đãi một cách có hệ thống.

Để bịt miêng những người đối lập, đồng thời để lừa bịp dư luận thế giới, người cầm quyền ở Hà Nội đã áp dụng những phương pháp xảo quyệt. Nhiều nhà hoạt động cho nhân quyền bị đưa ra tòa với các cáo buộc ngụy tạo như trốn thuế hay phạm tội hình sự. Mới đây các Blogger còn bị côn đồ tấn công và hành hung dã man.

Dù chế độ đàn áp thô bạo những người khác chính kiến, vẫn có những triển vọng tốt trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền. Số người trong nước muốn thực thi quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến càng ngày càng phát triển, khiến chế độ rơi vào „vòng lẩn quẩn“. Càng nhiều người bị bắt giữ thì càng có thêm nhiều tiếng nói phản đối sự cai trị độc đoán của chế độ độc tài Hà Nội. Đây chỉ là vấn đề thời gian, liệu đảng cộng sản Việt Nam còn chịu được áp lực này bao lâu nữa. 

Chúng tôi ở phương Tây có thể làm gì cho các Blogger ở Việt Nam? 

Những nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam đau lòng nhận thấy không có tình đoàn kết quốc tế và thiếu sự quan tâm của báo chí thế giới. Cuộc phản kháng thầm lặng chống lại nhóm quyền lực ở Việt Nam rất tiếc đã không tạo ra được các tựa đề lớn trên báo chí. Thay vào đó người ta thường đọc được các bài phóng sự du lịch thông tin về danh lam thắng cảnh và giá biểu thuận lợi ở những nơi nghỉ mát.

Chính vì khiếm khuyết, thiếu xót này mà sự hỗ trợ của phương Tây cho phong trào nhân quyền ở Việt Nam mang một ý nghĩa trọng đại. Công luận, chính giới, các nhà hoạt động nhân quyền và các tổ chức nhân quyền Đức nên tranh đấu công khai cho các Blogger Việt Nam. Thưc tế đã minh chứng, áp lực quốc tế không hẳn không hiệu quả. Ít nhất trong ba trường hợp, các Blogger được nhiều người biết đến đã được trả tự do nhờ sự can thiệp của quốc tế. Những cuộc gặp gỡ giữa các chính trị gia Đức với blogger Việt Nam trong khuôn khổ công du Việt Nam của họ cũng rất hữu ích. Tôi xin nhắc đến các cuộc đàm luận của Trưởng khối nghị sĩ Liên Minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (CDU) ở Quốc Hội liên bang, ông Volker Kauder, của Bộ trưởng Kinh tế liên bang, ông Sigmar Gabriel, của thứ trưởng tư pháp liên bang, ông Christian Lange v.v... với với một số nhà hoạt động Việt Nam. Đặc biệt dư luận chú ý đến chuyến viếng thăm Việt Nam của Đức Hồng Y Reinhard Marx hồi tháng giêng 2016. Đức Hồng Y Marx đã tiếp chuyện với các tín hữu, những nhà bất đồng chính kiến và cả đại diện chính quyền. Trong các cuộc tiếp xúc Đức Hồng Y ông đã tỏ ý rất hỗ trợ cho tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Tại Đức những người Việt bất đồng chính kiến, các Blogger người Việt và các nhóm người Việt hoạt động cho nhân quyền đã tự đảm nhận nhiệm vụ yểm trợ các Blogger ở quê nhà bằng nhiều cách. Họ thông tin cho công luận Đức về những vụ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vì hầu như báo chí Đức hiếm tường thuật về các sự bách hại chính trị ở Việt Nam. Họ chuyển dịch các tin tức do các Blogger soạn bằng Việt ngữ qua Đức ngữ và phổ biến rông rải cho công luận qua điện thư hay trên các trang báo mạng. Qua những hình thức này họ trở thành người phát ngôn ở các nước phương Tây cho các Blogger trong nước. Trong chương trình hoạt động của người Việt lưu vong còn có các cuộc biểu tình thầm lặng tại chỗ và hội thảo có sự đóng góp của người Đức. Họ cũng rất mong muốn được sự hợp tác của các tổ chức, các nhóm hoạt động cho nhân quyền và giới blogger Đức. 

Theo ý ông tại sao tự do thông tin và tự do tôn giáo không thể tách rời?

Không có tự do thông tin, ngôn luận và tư tưởng thì không thể có tự do tôn giáo. Không thể chấp nhận được tình trạng nhà nước có thể chọn lựa và chỉ định ai („một công dân bình thường“) được phép tham dự thánh lễ và ai („một công dân phê bình chế độ“ ) không được phép. Đây là điều mà „Ban tôn giáo chính phủ“ muốn đạt được. Ban này kiểm soát mọi hoạt động của từng tôn giáo và kiềm chế sự trao đổi thông tin giữa các tín hữu. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo, Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Hòa Thượng Thích Quảng Độ không được hành sử quyền tự do tư tưởng, tự do ý kiến. Cụ thể là cả hai vị đều bị giam giữ nhiều năm trong tù cũng như quản thúc tại gia.

Bản tiếng Đức: “Unsere Stimme für verfolgte Blogger”, 25. Februar 2016 / Marta Wajer, missio


Thân phận người công nhân Việt Nam

K’tem (Danlambao) - Mỗi lần chứng kiến cảnh người công nhân Việt Nam “đình công”, lòng luôn đau xót. “Đình công” chỉ là cách gọi dễ dãi. Nó chưa phải là cuộc đình công đúng nghĩa, nó cũng không phải là cuộc lãng công theo ngôn ngữ công nghiệp. Thật sự, nó chỉ là cuộc bỏ việc, một cuộc không chịu vào bên trong công ty để làm việc của những người không còn cách nào nữa để phản đối. Nếu có dịp chứng kiến hình ảnh đình công của công nhân Nam Hàn hay công nhân Đài Loan đình công trên đất nước họ mới cảm nhận được thân phận người công nhân Việt Nam. Họ đứng trước khuôn viên xí nghiệp, hai tay buông thỏng, gương mặt hoang mạng, ánh mắt ngại ngần. Một ngày nghỉ việc, một ngày không lương, có thể bị chủ đuổi, có thể đối diện nhiều ngày bị đói, và trầm trọng hơn có thể nhận lãnh tai vạ do những tên Công an chìm từ đám đông. Chưa hết tai vạ ấy có thể đến tận nhà trọ họ ở và xa hơn họ có thể bị bỏ tù.

Công nhân Nam Hàn đình công

Công nhân Đài Loan đình công

Công nhân Việt Nam đình công

Giai cấp công nhân từ lâu được coi là đối tượng quan trọng trong việc hình thành chủ nghĩa CS. Những ông tổ CS thường dựa vào sự “mất quân bình giữa tư bản, tiền công và lao động” thời sơ khai của nền kinh tế “tư bản” để cổ súy cho chủ nghĩa CS. Đảng CS tự mang lên người vai trò giải phóng giai cấp công nhân và nông dân không qua ý chí và sự ủy nhiệm của hai giai cấp này. Họ đã lợi dụng các giai cấp này cho mục tiêu và ước muốn của chính đảng mình. Với một địa bàn hơn 80% là nông thôn, và đa số thợ thuyền là “cu li” thời Pháp thuộc, cùng với những chiêu bài ma mị và sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng họ đã cướp được chính quyền một nửa VN, miền Bắc. Rồi sau đó tiến hành chiến tranh đánh miền Nam và chiếm trọn phần còn lại của đất nước. Trước, sau, cả hai miền, đảng CSVN trở thành chủ nhân mới, một loại chủ nhân độc tôn, quyền hành tuyệt đối, đứng trên pháp luật. Người dân, người nông nhân hay người công nhân được cho ở bao nhiêu thì ở, được cho ăn bao nhiêu thì ăn, bị chỉ định làm với bao nhiêu sức lao động thì làm.

Người công nhân trong cơ chế quốc doanh của ông chủ CS trước thời “đổi mới” không có một bô phận nào để bảo vệ. Nhân sự chính quyền nào trên đầu họ từ cấp tổ trưởng cho đến ấp, xã, huyện, tỉnh cho đến trung ương đều là chủ nhân của họ.

10 năm sau khi chiếm trọn miền Nam và làm chủ cả nước, ông chủ mới này không có khả năng làm cho cả nước đủ ăn và đủ mặc. Họ buộc lòng phải “đổi mới” và “cởi trói”. Từ đây họ trở thành liên chủ nhân với những tên tư bản “lô can” vùng Đông Nam Á và Đông Á mà họ liên doanh. Người công nhân Việt Nam bây giờ có hai chủ nhân mới. Chủ nhân cũ với mọi đặc tính cửa quyền và chủ nhân mới - khách mời với nhiều ưu đãi của ông chủ CS. Những tên tư bản “lô can” này bất chấp mọi nguyên tắc ràng buộc về nhân dụng theo chuẩn mực quốc tế mà họ bị bắt buộc khi làm ăn tại các quốc gia Tây phương (hay chính trên bản quốc của họ), cùng với sự hỗ trợ của tên chủ liên doanh (kiêm “cạp rằn” ĐCSVN), họ trả lương rẻ, không tạo điều kiện làm việc tốt và ngược đãi công nhân. Từ đầu thập niên 90, đã có nhiều vụ công nhân bị lôi ra phạt phơi nắng, bị đánh giày vào mặt và tổ trưởng công nhân bị đập giày lên đầu. Người công nhân không được ai bảo vệ. Ở giai đoạn ấy người công nhân vẫn bị ràng buộc theo luật Lao Động của cơ chế quốc doanh.

Thời gian gần đây hình thức liên doanh còn lại rất ít, bên cạnh đó trước sự dễ dãi tối đa và sự chào mời của đảng và nhà nước CSVN (điển hình có thể nghe lại lời phát biểu của Nguyễn Minh Triết trong chuyến đi Hoa Kỳ năm 2007), nhiều công ty ngoại quốc đến đầu mở hãng xưởng tại khắp miền Việt Nam. Nhiều hãng xưởng thuê mướn số lượng nhân công rất đông. Nhưng điều kiện làm việc của nhân công Việt Nam vẫn không khác gì của thời 90s. Ngoài những việc như lập hợp đồng làm việc không theo luật định, không thông qua đại diện công nhân, đuổi công nhân không cần báo trước, người công nhân vẫn còn bị làm nhục, vẫn còn bị đánh đập, vẫn bị bắt làm nhiều giờ, không được nghỉ giải lao, không được trả phụ trội cho việc làm nhiều giờ cùng chính sách thưởng phạt khắc nghiệt.

Càng ngày càng có nhiều cuộc đình công. Những năm 2006, 2007 có gần 1000 vụ đình công mỗi năm. Chỉ cần gõ “công nhân VN đình công” trên internet, là có 34 triệu kết quả. Mới nhất là cuộc đình công của hơn 17 ngàn công nhân hãng Pou Chen của Đài Loan tại TP Biên Hòa, Đồng Nai mà dư luận đang xôn xao.

Tại sao có nhiều cuộc đình công như vậy? Tại sao các công ty lớn với địa bàn hoạt động quốc tế, từng biết nguyên tắc quốc tế về thuê mướn lao động lại có chính sách không phù hợp đối với công nhân Việt Nam trên đất nước Việt Nam? Những câu hỏi này không khó tìm câu trả lời. Đó là sự làm ngơ trước những sai trái này của nhà nước Việt Nam, cái cơ cấu nhận tiền lót tay của những công ty đó.

Không riêng gì những công ty ngoại quốc bắt chẹt công nhân Việt Nam, chính đảng và nhà nước CSVN cũng bắt chẹt giai cấp công nhân của mình. Người ta vẫn còn nhớ cuộc đình công của hơn 90 ngàn công nhân hãng Pou Yuen vào ngày 26, 7 tháng 3 năm ngoái để phản đối luật Bào Hiềm Xã Hội mà Quốc Hội bù nhìn CSVN thông qua và áp dụng vào năm nay.

Người công nhân chen chút trong các nhà trọ lụp xụp gần khu chế xuất với cuộc sống bằng gói xôi điểm tâm dọc đường buổi sáng và những bữa cơm chiều muộn màng với nguồn thực phẩm trôi nổi độc hại từ các chợ vỉa hè trên đường về với mức lương tháng không bằng chai rượu ngoại trong tiệc nhậu của quan chức và cả con cái họ, phải sống trong cảnh một cổ hai tròng.

Những thân phận thấp bé này chỉ có một mỗi một vũ khí là “đình công”. Nhưng từ lâu những cuộc đình công không có ý nghĩ trọn vẹn của nó theo chuẩn mực lao động.

Những cuộc gọi là đình công không có bóng dáng của đại diện hay tổ chức thật sự đại diện cho quyền lợi của người công nhân theo từng đặt tính ngành nghề, không có mặt bằng làm việc của luật sư công đoàn và công ty trong tiến trình thương lượng và bảo vệ công nhân trong tiến trình này, và đặc biệt không có bóng dáng của “quyền lực” (power) bên phía công nhân. Đó chỉ là cuộc ngưng việc lẻ loi, và thân phận người công nhân ngưng việc rất mong manh. Họ xách giỏ cơm (vì không làm không được ăn cơm công ty) đến cổng công ty mỗi ngày và chờ đến khi nào công ty đưa người ra phủ dụ, hứa hẹn và kêu họ vào làm việc lại với một vài thỏa hiệp nhất thời nào đó.

Nói đến đây, người ta, và nhất là đảng và nhà nước CSVN sẽ nhắc đến bộ phận công đoàn, luật thành lập công đoàn và cả luật lao động.

Hãy xem Công đoàn là cái gì trong hệ thống nhà nước CSVN.

Trong Bộ luật công đoàn (1), công đoàn được định nghĩa:

“Điều 1. Công đoàn

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”

Và được phép hoạt động như sau:

“Điều 6. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn

2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.”

Công đoàn là một bộ phận chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, và hoạt động dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN).

Và TLĐLĐVN xác định (2):

“Luật Công đoàn đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (tại kỳ họp thứ 7 khóa VIII ngày 30/6/1990) đã khẳng định: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.

Với sự xác định này, người công nhân còn đòi hỏi được gì với “sự tự nguyện” và còn trông mong gì “dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN”?

TLĐLĐVN là tổ chức tối cao của công đoàn, dưới nữa là Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, rồi Công đoàn tổng công ty và cuối cùng là Công đoàn cơ sở. Đây là bộ phận gần công nhân nhất và theo Luật Công đoàn, Công đoàn cơ sở phải có sự chấp thuận của TLĐLĐVN mới được thành lập. Và nhiệm vụ của nó, bên cạnh vài qui ước hành chánh, là: Tuyên truyền đường lối, chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức công đoàn...

Rõ ràng công đoàn chỉ là bộ phận của đảng, nhà nước CSVN. Nó được lập ra nhằm đoàn ngũ hóa người công nhân như các đoàn thể khác thuộc Mặt trận Tổ quốc. Nó được lập ra để trao truyền mệnh lệnh của đảng và nhà nước.

Trước một chủ nhân ngoại quốc tham lam và bóc lột và một cơ cấu tổ chức do đảng lập ra nói là cho giai cấp công nhân nhưng thực ra cho đảng, mà đảng này chỉ là một tổ chức nhà nước đứng ra bán công nhân cho công ty ngoại quốc, thì trong những cuộc “đình công” người công nhân Việt Nam, không lo âu, hoang mang sao được – khác với tâm thế hừng hực đấu tranh của các công nhân Nam Hàn, Đài Loan trên đất nước của họ.

Bên cạnh sự hoang mang, rụt rè, lo lắng của công nhân trong các cuộc bỏ việc, người công nhân còn lo sợ một thế lực khác. Thế lực này hiện diện khắp mọi nơi trong xã hội. Chúng là Công An giả dạng côn đồ hành hung công nhân, nhằm tạo xáo trộn rồi bị bắt. Trường hợp tên Nguyễn Văn Hải thuộc CA tỉnh Đồng Nai chém người trong cuộc đình công mấy ngày qua của công nhân Pou Chen tại TP Biên Hòa, Đồng Nai là minh chứng rõ ràng nhất. Xa hơn nữa, người ta cũng còn nhớ nữ công nhân Nguyễn Thị Liễu và 1 người nữa bị cán chết, cùng 4 công nhân bị thương nặng trong vụ bảo vệ công ty đuổi và lấy chỗ của tài xế xe tải để lái xe lao vào cán nhóm công nhân đang đình công tại công ty Đài Loan thuộc khu công nghiệp Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Nội.

Công nhân Pou Chen, Đồng Nai đình công

Tuyệt vọng với công đoàn do đảng và nhà nước CSVN lãnh đạo và tổ chức, người công nhân bắt đầu ý thức đến việc thành lập Công đoàn độc lập. Nhưng việc tù đày Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương vẫn là nỗi ám ảnh cho tiến trình thành lập Công đoàn độc lập. Trước một hợp đồng bóc lột của một tập đoàn đảng CSVN chuyên bán công nhân, và bán mặt bằng đất nước cùng một đám chủ nhân ông ngoại quốc ham lợi chuyên mua mọi sự dễ dãi và ưu đãi của nhà nước CSVN bằng tiền và nhiều tiền, thực trạng người công nhân Việt Nam không còn lối thoát. Thân phận của người công nhân Việt Nam hiện nay không khác thân phận người phu đồn điền thời Pháp thuộc. Có điều họ phải làm cái việc bán mồ hôi đổi lấy bát cơm cho chủ, bên cạnh những tên “cạp rằn” tân thời là đảng và nhà nước CSVN. Tên “cạp rằn” tân thời này sẵn sàng quất roi vào lưng họ.

28/2/2016



___________________________________________

Chú thích:


Nguyễn Tấn Dũng thật sự là một tên bất tài và đã "chết"!

Nguyên Thạch (Danlambao) - Những tưởng rằng với hố sâu tội lỗi, Nguyễn Tấn Dũng có thể hối cải để đổi công chuộc tội. Nhưng không, ông không làm gì cả, ngay cả với việc tự cứu ông. Ông không thể làm được những việc rất cần thiết này vì ông hoàn toàn không có bản lãnh hay Trời đã định phận ông phải là như vậy?. Câu hỏi này còn chưa ngã ngũ nhưng chuyện: Có vay có trả là định luật. Ông đã mắc nợ quá nhiều thì tới ngày ông phải trả, đó là lẽ đương nhiên. Sẽ không ai thương tiếc, không ai đoái hoài cho cái chết vô tích sự của những tên bất tài vô tâm, mà hôm nay tôi có thể khẳng định rằng ngày bài viết này được tung ra công chúng cũng là ngày để đánh dấu khoảng thời gian mà Nguyễn Tấn Dũng đã chết lâm sàng.
 
*
 
Một số đông người Việt đã có căn cứ (cơ sở) để mong đợi những sự đổi mới cho Việt Nam trong bối cảnh mà một người ở trong vị thế như ông Nguyễn Tấn Dũng có thể vận hành sự ủng hộ chung quanh cùng quyền thế của đã có của ông để xoay chiều vận nước theo hướng thuận lợi mà hầu hết dân chúng mong đợi.
 
Sự ủng hộ (cho dẫu rất miễn cưỡng), vì hiện tại ở Việt Nam dưới một cơ chế độc tài độc đảng, tụ tập cả một bầy đàn u mê và bảo thủ, xét ra không còn ai khá hơn cũng như không còn bất cứ lựa chọn nào khác để các định chế quốc tế, các chính quyền liên hệ cùng một số người Việt ở nước ngoài lẫn số đông người Việt ở trong nước trông cậy, đặt niềm tin với hy vọng ông sẽ là một trong những nhân tố để có thể thay đổi cục diện đã và đang rất là bế tắc và nguy ngập về nhiều phương diện mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
 
1- Bình diện quốc gia: Con đường chính trị mà đất nước này đã và đang theo đuổi cho dẫu biết rằng đây là một con đường đầy hoang tưởng mà điểm đến của con đường sẽ không bao giờ có đích nhưng vì quyền lợi của nhiều cá nhân lãnh đạo và sự tồn vong của đảng CSVN nên nhóm lợi ích này chẳng những khẳng định lập trường Chù Nghĩa Xã Hội và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, mà họ còn cương quyết giữ vững chủ thuyết Mác-Lê trong tương lai cho dẫu vẫn biết rằng tương lai sẽ không bao giờ đến như lời nhận định của ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: "Đến hết thế kỷ này cũng không biết Việt Nam đã có CNXH hoàn chỉnh hay chưa?".
 
Hãy lấy mốc thời gian là năm đáng ghi nhớ 1975, một nửa của đất nước này vào lúc ấy đã có thể ở vị thế ngang hàng với Singapore, Nam Hàn (Hàn quốc), Đài Loan, Mã Lai và vượt hẳn cả Thái Lan, Philippine, Miên, Lào, Indonesia (Nam Dương) và ngay cả Trung cộng. Sau 40 năm dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CSVN mà đảng này luôn ca ngợi là sáng suốt và siêu việt đã đưa đất nước đến nghèo nàn, tụt hậu mà giờ đây Việt Nam không thể so sánh với bất cứ quốc gia nào ở Đông Nam Á và Á châu. Việt Nam hôm nay đã được liệt kê ở cuối bảng xếp hạng các quốc gia của khu vực này và các định chế kinh tế thế giới cho rằng "Việt Nam là một quốc gia không chịu phát triển!".
 
Hệ quả của sự tụt hậu đó có nguyên nhân từ đâu?. Không cần phải thông minh cho lắm thì người ta vẫn trả lời câu hỏi đó một cách dễ dàng và khá chính xác rằng là vì Cộng Sản. Với một guồng máy cồng kềnh tắc trách vô trách nhiệm từ số đông của cán bộ công nhân viên nhà nước, kèm theo với sự lãng phí, trình độ kém và đứng đầu là nạn ăn cắp của công và ngân quỹ quốc gia, nạn tham nhũng và bao che tham nhũng đã làm kiệt quệ ngân sách. Bên cạnh nguyên nhân gây nên sự kiệt quệ từ phía nhà nước là sự chi tiêu vô lý, không cần thiết cho hệ thống đảng phái chính trị. Đảng CSVN đã ưu tiên cho việc chi phí riêng của đảng như xây dựng các cơ sở làm việc của đảng ủy các cấp các nơi một cách vô cùng "hoành tráng", có những dinh thự vốn đã đủ tiện ích nhưng đảng đã cho phép đập phá để xây dựng lại uy nghi hơn, để có dịp ăn phần trăm hơn!. Thêm nữa, đảng đã lạm dụng tiền thuế của quốc gia để chi trả cho những chuyện đáng ra chỉ là việc riêng của đảng như chi phí hội họp, hội nghị... trả tiền lương, tiền trợ cấp cho hơn 4 triệu đảng viên, một con số khổng lồ và gây thất thiệt không ít từ ngân sách.
 
Thứ đến là chi phí khổng lồ cho Côn an, một tổ chức được xem là "lá chắn" để bảo vệ chế độ mà sự nghịch lý trắng trợn của tổ chức này là không nhằm mục đích bảo vệ dân hay nói một cách khác là dân trả số lượng tiền lớn để côn an ĐÀN ÁP CHÍNH MÌNH.
 
Chi phí cho Quân đội và An ninh quốc gia được xem là chi phí cần thiết cho bất cứ nước nào nhưng riêng Việt Nam thì người dân cảm thấy vô cùng bất bình khi lượng tiền lớn của quốc dân chi phí cho việc mua sắn vũ khí hiện đại như tàu ngầm, máy bay, hỏa tiễn... ưu tiên sử dụng những khu vực "đất vàng" cho quân đội nhưng khi giặc ngoại bang xâm chiếm biển đảo, đất liền, di dời cột mốc biên giới thì quân đội lại cúi đầu, im hơi lặng tiếng để giặc cướp tự tung tự tác và thậm chí còn cấm cản không cho phép quân đội chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc!

Đá Chữ Thập có diện tích 960.000 m2, tính đến ngày 21/10/2014. Ngoài đường băng, trên hòn đảo nhân tạo này còn có cảng biển đủ lớn để đón tàu tiếp tế, tàu chiến đấu cỡ lớn, nhiều nhà máy xi măng, cơ sở hỗ trợ, cầu cảng, súng phòng không, hệ thống chống người nhái, trang thiết bị liên lạc, nhà kính, bãi đáp trực thăng. Ảnh: CSIS/AMTI.

Phần đất cải tạo trên đảo được mở rộng đáng kể từ tháng 7/2014. Nơi này hiện có kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố, bãi đáp trực thăng, cơ sở quận sự và có thể xây một đường băng dài 3.000 m. Ảnh: AMTI/Digital Globe.Chú thích của vnexpress

Trung Quốc đặt các dàn phóng Tên lửa phòng không tại đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa


2- Bình diện quốc tế: Biển Đông, nếu dựa vào chứng tích của lịch sử và căn cứ vào CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ PHÂN ĐỊNH CÁC VÙNG BIỂN TRÊN BIỂN ĐÔNG (UNCLOS) (1) thì phần lớn Biển Đông và các đảo của nó nằm trong 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trực thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam. Thế nhưng Trung cộng đã ngang ngược tự mình hoạch định và tuyên bố Đường phân khúc 9 đoạn tức "Đường lưỡi bò" tung ra thế giới và hung hăng chiếm cướp 7 đảo của Việt Nam: Châu Viên, Đá Chữ Thập (với đường bay dài hơn 3km), Đá Gaven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Vành Khăn và Đá Subi (2) trước sự cúi đầu im lặng của Việt Nam, không phản kháng thỏa đáng bằng hành động quân sự cụ thể và cũng không dám ngay cả việc đưa Trung cộng vi phạm Công ước quốc tế ra trước tòa án quốc tế như quốc gia lân bang đã làm là Philippine, cũng như không dám chính thức nhờ vả Hoa Kỳ cùng các quốc gia đồng minh ủng hộ, giúp đỡ cũng như không mở rộng Dân Chủ Nhân Quyền để toàn dân có tiếng nói nhằm lên tiếng bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ lãnh hải cho Việt Nam. Sự thể này đã gây nên sự tức giận của dân chúng trong ngoài nước, cũng như sự ngao ngán của quốc tế khiến những cái nhìn đầy khinh bỉ đến những tên cầm quyền của đảng và nhà nước Việt Nam đã có thái độ rất hèn mạt và ngu muội vì đã bị Tàu cộng dụ dỗ và điều khiển.
 
Trung cộng đã ngông cuồng thách thức Việt Nam, Philippine, Brunei, Malaysia, Đài Loan và ngay cả cộng đồng thế giới bằng hành động xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố và các sân bay hiện đại cũng như lắp đặt các hệ thống chứa hỏa tiễn tầm ngắn, tầm xa có mang đầu đạn nguyên tử và dần dần tuyên bố chủ quyền bất khả xâm phạm Biển Đông của Trung cộng và ngăn cấm lưu thông hàng hải trên khu vực này.
 
Trở lại vấn đề Nguyễn Tấn Dũng, dưới một cơ chế độc tài toàn trị không có đảng đối lập, không có tự do báo chí, mọi tiếng nói, mọi phản kháng của người dân đều bị dập tắt từ trong trứng nước thì không có bất cứ tổ chức nào có thể đứng ra hành động ngoại trừ những người đang nắm quyền lực trong thể chế ấy. Trong hoàn cảnh không có lựa chọn như vậy, nhiều người đã có lý do khi đặt sự trông vọng vào cá nhân quyền lực như Nguyễn Tấn Dũng cùng phe nhóm của ông muốn có những sự thay đổi hoặc tiệm tiến, hoặc nhanh chóng tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cho phép. Ông Dũng đã có nhiều thời cơ khả thi cũng như có được nhiều cơ hội thuận lợi khi ông đang còn sở hữu nhiều quyền hành cũng như cầm nắm được lợi thế từ sự ủng hộ của dân chúng cũng như các chính quyền trên thế giới có khả năng giúp để thay đổi tình thế của Việt Nam mà cụ thể là Hoa Kỳ về mặt nổi và Nhật, Úc về mặt ngấm ngầm nhưng ông đã không thức thời, không đủ trình độ để nhận thức và can đảm hành động. Ngoài trình độ học thức hạn hữu của một y tá lớp ba trường làng, ông Dũng cũng không có được cái gan của người hùng dám tận dụng thời cơ để tạo nên thời thế mà nhiều người mong đợi. Nguyễn Tấn Dũng không hề mang cái hùng của Trí Nhân mà ông chỉ là một tên gian hùng bá láp.

 
Đáng lẽ bài này sẽ được viết ngay sau kết quả đại hội đảng toàn quốc XII với sự thất bại của Nguyễn Tấn Dũng cùng sự nhục nhã mà ông đã gánh lấy nhưng người viết lại "phạm thêm lỗi lầm" nữa là hy vọng sự biến đổi nào đó ở Hội Nghị Thượng Đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN tại Sunnlands ngày 15/ 2/ 2016. Cuối cùng cho thấy sự mong chờ ấy là một con số không to tướng sau khi hội nghị Hoa Kỳ-ASEAN kết thúc.
 
Quả vậy, tác giả cũng như những người có đặt chút hy vọng để viết lời giới thiệu "Hãy chọn lựa cái ít tệ hại nhất" cho bài viết "Mũi thuyền xé sóng – Mũi Cà Mau" của tác giả Trần Hồng Tâm đăng tải trên trang mạng Đàn Chim Việt và được trích đăng lại trên Quan Làm Báo cũng như bài "Nếu phải chọn thì chọn mất tiền hay mất nước?" đã được đăng trên Quan Làm Báo và Dân Làm Báo của Nguyên Thạch là những sai lầm mang tính khách quan. Đồng thời người viết bài này cũng không ngần ngại để công nhận rằng những người với chủ trương dứt khoát "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm" là đúng đắn. Bài học ĐỪNG BAO GIỜ TIN CỘNG SẢN càng nên phải được thuộc lòng, Tác giả thành thật xin lỗi bạn đọc cho dẫu cái lỗi là kỳ vọng cho sự thay đổi của thể chế hầu đất nước sớm thoát khỏi lầm than, độc tài toàn trị... cái lỗi ấy xét ra cũng rất đáng thương.
 
Trong một cơ chế mà mọi quyền hành, mọi chủ trương, chính sách đều giao cho đảng, không đối lập, không Tam quyền phạn lập, Đệ tứ quyền Tự do ngôn luận hoàn toàn vắng bóng thì chuyện lạm quyền để tự tạo uy thế, tiền bạc, độc tài độc đoán để đưa ra những quyết định (dẫu quyết định sai lầm) thì không phải là khó mấy. Cho nên dưới thể chế độc tài này, động thái cửa quyền, hối lộ, tham nhũng... không phải là chuyện khó thực hiện, bằng chứng là tham nhũng ở Việt Nam đã trở nên bất trị do nguyên nhân là vì CƠ CHẾ. Bởi vậy, trong suốt thời gian cầm nắm quyền hạn, giới lãnh đạo đã được cơ chế tạo cơ hội để được cung kính, tâng bốc và làm giàu, cho dẫu là làm giàu một cách phi pháp, bởi một lẽ dễ hiểu là cơ chế đã cho phép đảng nằm trên và ngoài vòng pháp luật.
 
Cơ chế đã ưu ái cho những người bất tài và thất học nhưng có "bề dày" về tham gia "Cách mạng" như Nguyễn Tấn Dũng, từ những sự ưu ái này cộng thêm đầu óc tánh và tình ma mãnh của đương sự, Nguyễn Tấn Dũng đã chóng vánh tiến thân và lợi dụng quyền thế của hắn để làm giàu một cách cực kỳ nhanh chóng. Với chức vụ Thủ tướng của một quốc gia có 90 triệu công dân quốc nội lẫn trên 4 triệu rưỡi người Việt ở hải ngoại cùng lượng kiều hối được gởi về nước trung bình 12-14.000.000.000 USD mỗi năm. Những tố giác về tham nhũng như Vinashin, Vinalines, Ngân hàng... mà bản thân ông được danh xưng là TRÙM cùng biết bao nhiêu phi vụ tham nhũng khủng khác chưa được liệt kê cũng như những chung chi khủng dưới dạng cá nhân một cách cực kỳ tinh vi thì sẽ đoán được Nguyễn Tấn Dũng là trùm tham nhũng cỡ nào.
 
Như đã trình bày ở trên, cơ chế đã khẳng định sự độc tài ở điều 4 Hiếp Pháp: "Đảng CSVN là cơ quan duy nhất lãnh đạo toàn diện và triệt để", điều này đã cho phép đảng trên pháp luật và ngoài vòng pháp luật mà ai cũng hiểu rất rõ rằng "chẳng lẽ đảng xử phạt đảng và bỏ tù đảng?" cho nên mọi vi phạm rồi sẽ được "cứt trâu để lâu hóa bùn" và chìm xuồng. Dưới một định chế bao che và đồng lõa như vậy thì bất cứ người đảng viên lãnh đạo nào cũng có thể tư tung tự tác và làm giàu một cách dễ dàng mà ví dụ điển hình nhất là sĩ quan CSGT. Sự giàu có mà không cần phải thông minh, phải học hành, phải vất vả, miễn có lý lịch theo tiêu chuẩn của đảng cùng bề dày, phải biết chối bỏ đạo đức, quên đi tinh thần trách nhiệm, dồn tâm trí về việc đếm tiền là được. Người nào càng có cá tánh gian xảo, ba xạo như Ba Dũng thì sự giàu có càng nhanh chóng hơn.
 
Những tưởng rằng với hố sâu tội lỗi, Nguyễn Tấn Dũng có thể hối cải để đổi công chuộc tội. Nhưng không, ông không làm gì cả, ngay cả với việc tự cứu ông. Ông không thể làm được những việc rất cần thiết này vì ông hoàn toàn không có bản lãnh hay Trời đã định phận ông phải là như vậy?. Câu hỏi này còn chưa ngã ngũ nhưng chuyện: Có vay có trả là định luật. Ông đã mắc nợ quá nhiều thì tới ngày ông phải trả đó là lẽ đương nhiên. Sẽ không ai thương tiếc, không ai đoái hoài cho cái chết vô tích sự của những tên bất tài vô tâm, mà hôm nay tôi có thể khẳng định rằng ngày bài viết này được tung ra công chúng cũng là ngày để đánh dấu khoảng thời gian mà Nguyễn Tấn Dũng đã chết lâm sàng.

Bản thân ông Dũng đã bị giới hạn về trình độ và nhận thức, đã thế những cố vấn cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng không đủ thông minh và cảm nhận cũng như dự đoán những gì sẽ xảy ra xung quanh. Ông không dám đứng mũi chịu sào thì cũng sẽ có người cùng toàn dân hợp sức lại thể hiện tinh thần và hành động cứu nước khi cơ hội đến. Tàu cộng sẽ bị Hoa Kỳ và nhiều nước tiên tiến trên thế giới bao vây về nhiều mặt mà trong đó kinh tế và sức mạnh của quân sự sẽ xé nát Trung cộng ra thành nhiều mảnh. Khi cái nôi thứ hai và ông chủ của Việt cộng sụp đổ thì thử hỏi đảng CSVN còn lý do gì để tồn tại?. Hỏi tức trả lời. Cho nên những đảng viên và lực lượng Quân đội nên nhanh chóng thức tỉnh trước khi quá muộn.
 
Điều bất hạnh nhất đối với một con người là sống nhưng đã đánh mất niềm tin từ những người chung quanh. Sự bất hạnh đó sẽ là nỗi nhục cho Nguyễn Tấn Dũng vì dẫu sao ông cũng đã từng là vị Thủ tướng của một quốc gia. Chuỗi ngày sắp đến, ông có thể còn nhiều tiền, ông có thể bị những kẻ khác giựt lấy nhưng điều chắc chắn là ông sẽ không còn tư cách. Chuỗi ngày còn lại có thể ông sẽ giữ được mạng mà xin tỵ nạn ở Pháp, ở Thụy Sĩ hay bất cứ nơi đâu chịu dung túng ông, hoặc ông có thể bị mất mạng như thân phận của một con chó xà mâu mà người ta muốn trừ khử xa lánh. Bản thân ông, ông chết, ông sống?. Mặc ông, nhưng với công chúng Nguyễn Tấn Dũng thật sự đã chết.



__________________________________________

Chú thích: